Hướng tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: Đổi mới tư duy là yếu tố quyết định thành công
- content:
-
Từ đại hội VI, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ngày càng đi vào chiều sâu. Trước những vấn đề mới nảy sinh từ cuộc sống, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất coi trọng phát triển tư duy lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn trong nước, đồng thời mở rộng tầm nhìn ra bên ngoài, chú ý tham khảo kinh nghiệm của thế giới. Trong đó tập trung giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là tâm điểm trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia. Các đại hội VII, VIII, IX, X, XI và XII của Đảng và nhiều Hội nghị Trung ương trong các nhiệm kỳ đại hội ngày càng xác định rõ hơn mô hình kinh tế tổng quát, mục tiêu chung, cùng với hệ thống các chủ trương và quan điểm có ý nghĩ chỉ đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong đó, điểm then chốt về mặt nhận thức lý luận có tính chất xuyên suốt sau gần 30 năm Đổi mới là giải quyết hài hòa mối quan hệ nói trên.
Những tiền đề lý luận và thực tiễn cho bước chuyển quan trọng này xuất hiện từ trước đó. Có thể coi Hội nghị Trung ương 6 khóa IV (tháng 9 - 1979) với chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra” là bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta. Hội nghị Trung ương 8 khóa V (tháng 6 - 1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Đến tháng 8 - 1986, trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, Bộ Chính trị đã xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế nhưn (a) lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, phát triển công nghệ nhẹ, công nghiệp nặng chọn lọc phát triển; (b) xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần; (c) sử dụng đúng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ chế độ tập trung, quan liêu bao cấp. Đây là bước đột phá thứ ba có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy lý luận về xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VI (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức - cán bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác.Đây là lần đầu tiên trong nhận thức của Đảng về phát triển đất nước, chính sách xã hội với mối tương quan của nó với chính sách kinh tế được đặt đúng tầm. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) xác định mục tiêu tổng quát tư tưởng của Đại hội VII, xác định mục tiêu tổng quát của quá trình đổi mới nói riêng, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chúng, là phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Bước sang thế kỷ XXI, Đại hội IX (tháng 4-2001) đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng về mô hình phát triển tổng quát của cả thời kỳ quá độ. Đại hội xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (tháng 1-2004) đã tiếp tục khẳng định một nhiệm vụ quan trọng là phát triển văn hóa, xã hội đồng bộ hơn với tăng trưởng kinh tế. Bối cảnh trong nước và quốc tế từ 2006 đến nay gâysức ép lớn lên mục tiêu tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội, nhằm phân phối lại một cách công bằng hơn các kết quả của tăng trưởng trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, Đại hội X của Đảng vẫn nhất quán với chủ trương, mục tiêu đã đề ra và khẳng định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục,…giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”.
Các văn kiện Đại hội XI cũng đã nêu nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách mới để tiếp tục thực hiện tốt hơn việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong giai đoạn 2011 - 2020. Một nhiệm vụ mới nhấn mạnh trong nghị quyết đại hội XI đó là tăng trưởng kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường. Chủ trương này phản ánh tư duy lãnh đạo Việt Nam quá trình hội nhập vào xu thế phát triển chung của nhân loại của Đảng. Môi trường được đảm bảo sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển và tiến bộ bền vững của đất nước. Mặt khác, sự bền vững của môi trường cũng là đảm bảo cho sự an toàn, cho sinh kế, sức khỏe của nhân dân.
Đánh giá một cách tổng thể, trong thời gian qua, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ vững, thâm hụt ngân sách và nợ quốc gia được kiểm soát trong giới hạn an toàn. Những thành quả đạt được về kinh tế đã tạo nguồn lực cho việc giải quyết thành công hàng loạt các vấn đề xã hội: xoá đói giảm nghèo, phát triển giáo dục, chăm sóc sức khỏe, hoàn thành các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ nhằm nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống người dân. Tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 cho thấy, Việt Nam đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001 - 2010 đã được thực hiện; đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững.Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ.Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm, nhưng từ đầu năm 2018 đến nay tỷ lệ thất nghiệp lại có xu hướng gia tăng do nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, kinh doanh, thậm chí phải đóng cửa trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Ðặc biệt, trong nông thôn những năm gần đây, do hàng trăm nghìn hộ nông dân bị thu hồi đất mà việc hỗ trợ đào tạo nghề chưa đáp ứng, nên tình trạng thiếu việc làm khá nghiêm trọng.
So với đổi mới tư duy kinh tế, quá trình đổi mới tư duy về phát triển, quản lý xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội còn chậm, vẫn nặng tư tưởng coi việc giải quyết các vấn đề xã hội là trách nhiệm của Nhà nước, chưa thu hút được các nguồn lực xã hội tham gia, đặc biệt là không gian dân sự và đầu tư cho khoa học nghiên cứu các vấn đề xã hội mới, phức tạp đang nảy sinh.
Tình trạng tái nghèo ở một số vùng như vùng núi cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng bị thiên tai vẫn còn cao. Giải quyết việc làm chưa tạo được sự bứt phá về năng suất lao động, chưa tạo được nhiều việc làm bền vững, tỷ lệ thất nghiệp thanh niên còn cao ở mức 7% năm. Thị trường lao động chưa phát triển đồng bộ. Ở nông thôn, tình trạng thiếu việc làm còn trầm trọng, tiềm ẩn nguy cơ thất nghiệp, nhất là ở các khu vực đô thị hóa, chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Cơ cấu dân số biến động mạnh, mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng nghiêm trọng. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn nhiều bất cập; sản xuất, quản lý và sử dụng thuốc chữa bệnh còn nhiều yếu kém, thiếu sót.Tình hình ô nhiễm thực phẩm, ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm vẫn còn cao, chưa có khả năng kiểm soát. Hệ thống an sinh xã hội và bảo hiểm xã hội đang trong quá trình phát triển nên chưa bao phủ rộng khắp, đặc biệt là khu vực nông thôn và khu vực phi kết cấu. Hệ thống giáo dục quốc dân chưa đồng bộ, chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong điều kiện hội nhập.
Về văn hóa, đất nước đã và đang chứng kiến những bước chuyển trong nhận thức về vai trò của văn hóa trong phát triển và hội nhập quốc tế, đặc biệt là vấn đề phát triển, bảo tồn các giá trị văn hóa, hình thành các cơ chế quản lý văn hóa, hội nhập văn hóa. Bên cạnh đó, những vấn đề mới như chiến lược để hội nhập, quảng bá văn hóa, vấn đề thị trường trong văn hóa, phát huy vai trò chủ thể trong bảo tồn và phát huy văn hóa của người dân…vẫn là những khoảng trống chưa được lấp đầy trên cả phương diện nghiên cứu khoa học lẫn thực tiễn triển khai chính sách.
Trong bối cảnh phát triển của Việt Nam hiện nay, trong lĩnh vực văn hóa, cần tăng cường công tác truyền thông về các vấn đề văn hóa và văn nghệ, tiếp thu có chọn lọc các thành tựu văn hóa của quá trình hiện đại hóa xã hội. Thông qua việc phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội, tích cực bảo vệ và phát huy những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc: tình làng, nghĩa xóm, tình cảm cộng đồng, tôn trọng các giá trị gia đình và phụ nữ. Bên cạnh đó, có những giải pháp phù hợp, trên cơ sở có nghiên cứu cụ thể các điều kiện văn hóa xã hội địa phương, để đảm bảo cho cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” (xây dựng ấp văn hóa; khu phố văn hóa; xã, phường, thị trấn văn hóa; gia đình văn hóa, nhà văn hóa…) trở nên thực sự gắn kết với không gian văn hóa truyền thống của người Việt Nam. Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa (cả vật thể và phi vật thể), có chính sách đãi ngộ phù hợp cho các nghệ nhân văn hóa và tạo điều kiện thuận lợi để quảng bá, giao lưu văn hóa Việt Nam với thế giới.
Phòng Văn hóa và Thông tin